Tại nhiều địa phương hôm nay, giá lúa tươi tiếp tục neo cao, giao dịch chậm, ít người mua. Tại An Giang, giao dịch chậm, chủ yếu lấy lúa đã cọc trước. Tại Sóc Trăng, giao dịch mới chậm, nông dân chào giá cao. Tại Long An, giá ít biến động, nhu cầu mua khá chậm, ít chốt mới. Tại Kiên Giang, lúa đồng Miệt Thứ được chào bán nhiều, song giá cao, ít người mua.
Tại nhiều địa phương hôm nay, giá lúa tươi tiếp tục neo cao, giao dịch chậm, ít người mua. Tại An Giang, giao dịch chậm, chủ yếu lấy lúa đã cọc trước. Tại Sóc Trăng, giao dịch mới chậm, nông dân chào giá cao. Tại Long An, giá ít biến động, nhu cầu mua khá chậm, ít chốt mới. Tại Kiên Giang, lúa đồng Miệt Thứ được chào bán nhiều, song giá cao, ít người mua.
Trong đó, các địa phương phía Bắc thu hoạch 991,8 nghìn ha lúa mùa, chiếm 98,7% và bằng 101,2%; các địa phương phía Nam thu hoạch 394 nghìn ha lúa mùa, chiếm 73% và bằng 109,7%. Tiến độ thu hoạch lúa mùa sớm hơn so với cùng kỳ năm trước do điều kiện thời tiết thuận lợi, các địa phương chủ động gieo cấy sớm để ứng phó với xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu.
Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa mùa năm nay của cả nước ước đạt 53,3 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha so với vụ mùa năm trước; sản lượng ước đạt 8,23 triệu tấn, tương đương vụ mùa năm trước. Năng suất tại các địa phương phía Bắc ước đạt 53,3 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha so với vụ mùa năm trước; sản lượng ước đạt 5,36 triệu tấn, giảm 79,9 nghìn tấn do diện tích gieo cấy giảm.
Tại các địa phương phía Nam, năng suất ước đạt 53,2 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với vụ mùa năm trước; sản lượng ước đạt 2,87 triệu tấn, tăng gần 80 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng lúa thu đông năm 2023 tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long ước đạt 708,8 nghìn ha, tăng 60,8 nghìn ha so với vụ thu đông năm trước do giá lúa tươi luôn ổn định ở mức cao nên người dân đã tranh thủ xuống giống mở rộng diện tích. Tính đến 15/11/2023, toàn vùng đã thu hoạch được 317,3 nghìn ha lúa thu đông, chiếm 44,8% diện tích gieo cấy và bằng 107,7% cùng kỳ năm trước.
"Theo báo cáo sơ bộ, năng suất toàn vụ lúa thu đông 2023 ước đạt 56,6 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha so với vụ thu đông năm trước; sản lượng ước đạt 4 triệu tấn, tăng 392 nghìn tấn so với vụ thu đông năm trước".
Tính đến ngày 15/11/2023, các địa phương phía Nam đã gieo cấy được 244,8 nghìn ha lúa đông xuân sớm, bằng 83,5% cùng kỳ năm trước, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tiến độ gieo trồng lúa đông xuân chậm hơn cùng kỳ do một số địa phương chỉ đạo lịch thời vụ xuống giống muộn hơn để tránh hạn mặn, bên cạnh đó vụ lúa hè thu năm nay thu hoạch muộn hơn cùng kỳ năm trước.
Về xuất khẩu gạo, trong nửa đầu tháng 11/2023, cả nước đã xuất khẩu 332.214 tấn gạo, trị giá đạt 219 triệu USD. Lũy kế từ đầu năm đến 15/11, cả nước xuất khẩu 7,37 triệu tấn gạo, mang về 4,15 tỷ USD. Như vậy, xuất khẩu gạo đã vượt xa năm 2022 (7,1 triệu tấn, trị giá đạt 3,45 tỷ USD).
Về thị trường xuất khẩu gạo, lớn nhất là 2 thị trường ASEAN và Trung Quốc. Trong đó, tại ASEAN, gạo được xuất khẩu nhiều nhất sang Philippines, Indonesia, Singapore. Số liệu cập nhật 10 tháng, xuất sang ASEAN đạt 4,2 triệu tấn, tăng 25,7%; xuất khẩu sang Trung Quốc đạt gần 900.000 tấn, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước.
Dự báo, xuất khẩu gạo sẽ tiếp tục thuận lợi trong thời gian tới, với bối cảnh tình trạng căng thẳng nguồn cung gạo vẫn chưa có dấu hiệu được cải thiện.
Mới nhất, Ấn Độ dự kiến sẽ duy trì hạn chế xuất khẩu gạo trong năm tới. Động thái này có thể khiến giá gạo tiếp tục neo ở mức cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng lương thực năm 2008, do Ấn Độ là quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ tiếp tục sôi động do nhu cầu nhập khẩu tăng từ nhiều thị trường lớn. Sau khi Ấn Độ cấm xuất khẩu từ cuối tháng 7/2023, giá gạo đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 15 năm, tính tới tháng 8 vừa qua.
Năm 2024 được dự báo vẫn còn rất nhiều dư địa cho xuất khẩu gạo của Việt Nam khi nguồn cung thiếu hụt và các nước tăng cường nhập khẩu để đảm bảo an ninh lương thực trước những biến động khó lường của thị trường gạo toàn cầu.
Thị trường nếp duy trì đi ngang so với ngày hôm qua. Nếp IR 4625 (tươi) 7.400 - 7.600 đồng/kg, ổn định so với ngày hôm qua. Nếp An Giang (tươi) 7.000 - 7.200 đồng/kg, đi ngang so với ngày hôm qua. Cập nhật tại các địa phương hôm nay gạo lượng về ít, kho mua chậm, giao dịch trầm lắng, gạo chợ nhiều hàng yếu, khó lựa gạo đẹp.
Trên thị trường gạo, giá gạo ghi nhận có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Hiện gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu ở mức 10.800 - 10.900 đồng/kg, tăng 150 - 200 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 lên mức 13.100 - 13.300 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động 6.600 - 8.800 đồng/kg. Hiện, giá tấm OM 5451 ở mức 8.600 - 8.800 đồng/kg; giá cám khô ở mức 6.600 - 6.700 đồng/kg.
Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.000 - 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 21.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ở mức 452 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% ở mức 571 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 534 USD/tấn, giảm 1 USD/tấn.
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.
Hiện tại đang là thời điểm người chăn nuôi tập trung tái đàn, tăng đàn gia súc, gia cầm để cung ứng ra thị trường vào dịp lễ, tết cuối năm và đầu năm mới. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn gặp khó khăn do giá thị lợn hơi thấp trong khi chi phí đầu vào cao, dịch tả lợn Châu phi quay trở lại ở một số địa phương.
Đối với ngành lâm nghiệp, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng 11/2023 ước đạt 33,3 nghìn ha, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước do thời tiết không thuận lợi làm ảnh hưởng đến tiến độ trồng rừng mới. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 8,3 triệu cây, tăng 4,1%. Sản lượng gỗ khai thác trong tháng 11 đạt 2.074,2 nghìn m3, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 11 tháng năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 261,9 nghìn ha, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 92 triệu cây, tăng 4,6%. Sản lượng gỗ khai thác lũy kế 11 tháng đạt 18,2 triệu m3, tăng 2,9%.
"Tính chung 11 tháng của năm 2023, tổng sản lượng thủy sản thu hoạch ước đạt 8.473,5 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Cá đạt 6.024,8 nghìn tấn, tăng 1,7%; tôm đạt 1.231,6 nghìn tấn, tăng 5,2%; thủy sản khác đạt 1.217,1 nghìn tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước".
Về ngành thủy sản, sản lượng thu hoạch trong tháng 11/2023 ước đạt 836,3 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Cá đạt 582,5 nghìn tấn, tăng 2,5%; tôm đạt 134,7 nghìn tấn, tăng 7,0%; thủy sản khác đạt 119,1 nghìn tấn, tăng 2,4%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng 11 ước đạt 550,6 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, cá đạt 368,1 nghìn tấn, tăng 4,2%; tôm đạt 121,4 nghìn tấn, tăng 7,8%.
Sản lượng thu hoạch cá tra trong tháng tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm trước do bắt đầu vào vụ thu hoạch cuối năm và xuất khẩu sang một số thị trường tăng cao. Sản lượng cá tra trong tháng ước đạt 177,3 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.
Việc áp dụng mô hình nuôi tôm thâm canh công nghệ cao, nuôi tôm siêu thâm canh giúp tăng sản lượng. Sản lượng tôm thẻ chân trắng trong tháng ước đạt 88,6 nghìn tấn, tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm sú đạt 24,7 nghìn tấn, tăng 3,8%.
Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng 11/2023 ước đạt 285,7 nghìn tấn, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Cá đạt 214,4 nghìn tấn, giảm 0,2%; tôm đạt 13,3 nghìn tấn, tương đương cùng kỳ năm trước; thủy sản khác đạt 58 nghìn tấn, giảm 0,3%.
Sản lượng thủy sản khai thác biển ước đạt 265,2 nghìn tấn, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của thời tiết ngư trường không thuận lợi và các tàu đánh bắt đã dần thực hiện nghiêm quy định chống đánh bắt IUU nên sản lượng khai thác giảm.
Cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang cho biết, giá lúa hôm nay ghi nhận có điều chỉnh so với ngày hôm qua, IR 50404 giá ở mức 7.600 - 7.900 đồng/kg, giảm 100 - 200 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức giá 8.300 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 8.000 - 8.200 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 8.300 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; lúa OM 380 dao động 7.600 - 7.800 đồng/kg; lúa Nhật ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.