Chấn hưng văn hóa Việt Nam - yêu cầu được khẳng định từ thực tiễn
Chấn hưng văn hóa Việt Nam - yêu cầu được khẳng định từ thực tiễn
Giao lưu văn hóa – Trao đổi học sinh là hình thức giúp học sinh sinh viên có cơ hội sống và học tập ở nước ngoài trong một khoảng thời gian để trải nghiệm văn hóa mới, mở rộng mạng lưới các mối quan hệ quốc tế và cải thiện khả năng ngoại ngữ của bạn.
Có khá nhiều người thắc mắc rằng làm thế nào để có thể đăng ký chương trình trao đổi văn hóa? Nhìn chung các chương trình này đều được đưa về các trường hoặc các tổ chức có liên quan, vì vậy nếu muốn tham gia chương trình bạn cần phải lập kế hoạch sớm nếu không muốn bỏ lỡ thời gian đăng ký.
Học sinh sinh viên đăng ký chương trình thường được yêu cầu cung cấp các giấy tờ như điểm kiểm tra tiếng Anh, bảng điểm, thư giới thiệu của giáo viên và một số giấy tờ khác tùy theo yêu cầu.
Thông thường, các chương trình trao đổi văn hóa, trao đổi sinh viên quốc tế đều nhận được rất nhiều hồ sơ đăng ký. Để giúp cho hồ sơ của mình trở nên nổi bật, bạn cần có một bản sơ yếu lý lịch được chuẩn bị cẩn thận, chứng minh được cho nhà trường thấy bạn có sự chuẩn bị đầy đủ và mục tiêu rõ ràng cho năm trao đổi như các khóa học hay hoạt động mà bạn quan tâm.
Các chương trình trao đổi có thể diễn ra trong một học kỳ hoặc một năm, tuy nhiên nếu không muốn ra nước ngoài quá lâu, thì bạn có thể tận dùng kỳ nghỉ hè hoặc nghỉ xuân để tham gia các khóa du học hè, du học tết của EF để cải thiện tiếng Anh và tìm hiểu về văn hóa nước bạn. Các điểm đến phổ biến bạn có thể lựa chọn như du học Úc, Canada, Anh, Mỹ, Singapore.
Ngoài các văn bản Khóa Hư, Thiền Uyển Tập Anh, Đuốc Tuệ còn thường xuyên đăng những bài văn Nôm do các thiền sư Việt Nam sáng tác hay phóng tác trên các nguyên bản Hán văn. Các thiền sư Thái Hòa, Thiền Phố thường làm công việc ấy. Phần lớn những tác phẩm đều được phiên âm từ mục Hành Trì Tập Yếu trong sách Chư Kinh Nhật Tụng của chùa Vĩnh Khánh (huyện Chí Linh), hoặc của chùa Yên Minh (huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) khắc bản. Đó là những tác phẩm như Thiền Tịch Phú (Chân Nguyên), Sự Lý Dung Thông (Hương Hải), Thỉnh Âm Hồn Văn (Đắc Nhất), Ngũ Giới Diễn Ca (Như Như), v.v… Những công việc này đều được hướng dẫn bởi ý niệm bảo tồn và phát huy gia tài văn hóa Phật giáo và dân tộc.
Từ năm 1940 trở đi hội Bắc Kỳ Phật giáo lại khởi công khắc bản ấn hành những thư tịch Phật giáo Việt Nam bằng Hán văn. Bộ Việt Nam Phật Điển Tùng San đã được hội khắc bản và ấn hành với sự bảo trợ của trường Viễn Đông Bác Cổ.
Năm 1943, những tác phẩm sau đây đã được ấn hành:
Chư Kinh Nhật Tụng (một bộ hai tập)
Thụ Giới Kinh Phạm (một bộ hai tập)
Thiền Uyển Kế Đăng Lục (một tập)
Trần Triều Dật Tồn Điển Lục (một tập)
Lễ Tụng Hành Trì Tập Yếu (một tập)
Những tác phẩm như Thiền Uyển Tập Anh, Thánh Đăng Lục, Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh chưa kịp ấn hành thì thời thế biến chuyển và công việc bị đình trệ.
Thiền Uyển Kế Đăng Lục là tác phẩm của thiền sư Như Sơn, đã từng được thiền sư Phúc Điền bổ túc phần cuối. Ông đem sách này để sau các sách Thượng Sĩ Ngữ Lục cùng Tam Tổ Thực Lục và làm thành “quyển hạ” của bộ Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục do ông chủ trương khắc bản. “Quyển thượng” của bộ này là Thiền Uyển Tập Anh. Điều này ông có nói rõ trong bài tựa trùng khắc. Hội Bắc Kỳ Phật giáo in lại bài tựa này ở các tác phẩm Thiền Uyển Kế Đăng Lục.
Pháp Hoa Đề Cương và Bát Nhã Trực Giải là hai tác phẩm của thiền sư Thanh Đàm đầu thế kỷ thứ mười chín. Sách Khóa Hư mà hội Bắc Kỳ Phật giáo khắc in đã được căn cứ trên bản của chùa Quất Tụ năm 1850. Thiều Chửu, trong Đuốc Tuệ, chỉ mới dịch được một phần tác phẩm. Nhiều mục như Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ, Ngữ Lục Vấn Đáp Môn Hạ, Niệm Tụng kệ, v.v… chưa được ông dịch đến. Trần Triều Dật Tồn Điển Lục gồm có: Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục và Tam Tổ Thực Lục.
Sự ra đời của bộ Việt Nam Phật Điển Tùng San là một trong những công trình lớn nhất của hội Bắc Kỳ Phật giáo. Nhiều thư viện trong nước và ngoài nước nhờ sự có mặt của bộ này mà có được một số tác phẩm xưa của Phật giáo Việt Nam. Có một điều lạ là tại thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ Paris không thấy có bộ này.
Nhờ có hội Bắc Kỳ Phật giáo mà nhiều học giả tân cũng như cựu đã có cơ hội nghiên cứu Phật học. Những người có cựu học, ngoài các kinh bản cổ điển khó đọc còn được đọc các tân thư về Phật giáo như Hải Triều Âm Văn Khố, các tác phẩm của Thái Hư và các bài vở của những học giả như Lương Khải Siêu, Khương Hữu Vi, Châu Tự Ca, Âu Dương Kiến Vô và Dương Nhân Sơn, v.v… Những tân thư này đọc dễ hiểu hơn cổ văn, do đó sự học Phật của giới cựu học cũng trở nên dễ dàng hơn. Những nhân vật như Phan Đình Hòe (tổng đốc trí sĩ, hội trưởng chi hội Phật giáo Nam Định), Nguyễn Huy Xương (bố chánh, Kiến An), Đỗ Đình Nghiêm (đốc học, Bắc Ninh) đều đã thường viết bài và đứng lên thuyết pháp tại chùa trụ sở của các chi hội. Ông Phan Đình Hòe chẳng hạn, đã thuyết giảng về “sự quan thiết giữa đạo Phật với sự sống” tại chùa Cả ở Nam Định ngày 13.8.1935 ngay khi hội còn chưa xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Có thể nói rằng các ông Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim và Trần Văn Giáp đã nghiên cứu Phật học kỹ lưỡng hơn cả. Ông Giáp chuyên về ngành nghiên cứu Phật giáo sử, đã viết nhiều bài trong tập san trường Viễn Đông Bác Cổ. Thiên khảo cứu Le Bouddhisme En Annam Des Origines Au 13e Siècle của ông có thể gọi là công trình đầu tiên về Phật sử Việt Nam công bố trong giới học giả quốc tế[3].
Ông Trần Trọng Kim, trưởng ban Nghiên cứu Phật học của Hội Bắc Kỳ Phật giáo, đã viết nhiều bài diễn thuyết rất vững chãi về Phật học. Bài diễn thuyết đầu tiên của ông tại chùa Quán Sứ ngày 17.3.1935, có đầu đề là Phật giáo đối với cuộc nhân sinh là một bài giới thiệu đại cương về Giáo lý đạo Phật. Đây không phải chỉ là một bài diễn thuyết của một người học giả, mà là một bài giảng diễn của một người đứng trên lập trường chấn hưng Phật giáo. Ông nhấn mạnh đến tính chất tự cường tự lực cần có của những người thực sự muốn tu hành theo đạo Phật. Ông nói:
“Theo đạo Phật là tự cái tâm mình phấn chấn lên mà làm điều lành điều phải, tự mình có sức mạnh để phá cho hết những cái nó trói buộc mình vào chỗ khổ. Bởi thế người thật bụng theo đạo Phật là người có cái tâm lực rất cường kiện, lòng dạ vững bền như gang sắt. Cũng vì thế mà đạo Phật thường hay dùng bốn chữ “dũng mãnh tinh tiến”. Dũng mãnh tinh tiến để giải thoát, dũng mãnh tinh tiến để cứu người, dũng mãnh tinh tiến để phá cái mê, trừ cái hại. Người ta đã có cái đức dũng mãnh tinh tiến thì không bao giờ chịu đứng lùi lại mà chịu kém người, không bao giờ lười biếng trễ nải, không bao giờ ham mê vật dục, có thể giam hãm mình vào những nơi tối tăm dơ bẩn”.
Sau khi nói đến đại nguyện của đức Quan Thế Âm, ông tiếp:
“Đạo Phật về đường tinh thần thì mạnh mẽ như thế, về đường từ bi bác ái thì rộng rãi bao la như thế. Giá ta hiểu được rõ và biết đúng ra thì rất có lợi cho sự tiếp thu của người đời”.
Theo ông, đó là lý do chính khiến ông và các đồng bạn lập ra hội Bắc Kỳ Phật giáo. Ông lại nói: “Đạo Phật là một tông giáo của người mình xưa nay vẫn tin theo rất nhiều, là bởi đạo ấy có cái hình thức dễ khiến cho người ta tin được. Còn về đạo lý của nhà Phật, thì có nhiều ý nghĩa sâu xa, hiện những nhà học thức trong thiên hạ cũng đã kê cứu tường tận đều nhận là một đạo rất hay. Vậy một tông giáo có phần rất cao thâm, rất phổ thông mà lại thấm thía vào tủy não người mình đã bao nhiêu đời nay, người trong nước hầu khắp từ Nam chí Bắc ai ai cũng tín ngưỡng sùng bái thì tất là có ảnh hưởng đến sự làm ăn hàng ngày của ta. Một cái đạo có thế lực về đường tinh thần sâu xa như thế thì sao ta không cố gắng làm cho nó sáng rõ ra khiến những tín đồ biết rõ cái đạo của mình tin và biết cách ăn ở cho phải đạo, để bớt được những khổ não trong đời. Chẳng hơn là cứ bo bo ở chỗ vật chất, nông nổi, hẹp hòi, biến đổi, vô thường nay thế này mai thế khác, làm cho người ta bơ vơ không biết bám víu vào đâu, tựa như chiếc thuyền lênh đênh giữa dòng, không biết đâu là bờ là bến hay sao?
“Bởi những lẽ ấy cho nên chúng tôi rủ nhau đứng lên lập hội Phật giáo, chủ ý là muốn làm cho sáng cái đạo đã mờ, muốn trau chuốt cho bóng bẩy hơn trước và lại thích hợp với nhu yếu của người đời”.
Những dòng trên có thể được xem là một bản “tuyên ngôn” của phong trào chấn hưng Phật học. Ta thấy trong những lời đơn sơ kia chủ ý phục hưng đạo Phật (“làm cho sáng cái đạo đã mờ”), hiện đại hóa nó (“trau chuốt bóng bẩy hơn trước và lại thích hợp với nhu yếu của người đời”) để nó có thể đóng vai trò văn hóa dân tộc (“một cái đạo có năng lực về đường tinh thần sâu xa như thế thì sao không cố gắng làm cho nó sáng rõ ra khiến những tín đồ biết rõ cái đạo của mình tin và biết cách ăn ở cho phải đạo”) và làm nơi quy túc và hướng đi tinh thần cho người dân (“chẳng hơn là cứ bo bo ở chỗ vật chất, nông nổi hẹp hòi, v.v… tựa như chiếc thuyền lênh đênh giữa dòng, không biết đâu là bờ bến, v.v…”).
Những bài khảo cứu của Trần Trọng Kim cho ta biết là hồi còn làm trưởng ban Nghiên cứu Phật học, ông đã để ra rất nhiều thì giờ để khảo cứu và học hỏi về Phật giáo. Ông đã nghiên cứu về các tông phái Đại thừa và Tiểu thừa, về thế giới quan và nhân sinh quan của đạo Phật. Ông cũng đã phiên dịch Bát Nhã Tâm Kinh từ Hán văn ra quốc ngữ. Nhà xuất bản Tân Việt tại Sài Gòn đã ấn hành các tác phẩm Phật Lục, Phật Giáo Thuở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay và Phật Giáo Trong Ba Bài Diễn Thuyết của ông.
Phật Lục là một tập sách phổ thông về Phật học nhắm tới giới độc giả bình dân. Theo ông sách này chỉ là “mấy cái đại ý về đạo cứu thế của nhà Phật” chứ không phải là “sách nghiên cứu lý thuyết cao siêu”. Nội dung sách này gồm có một Lời Mở Đầu nói đại cương về đạo Phật và năm chương nói về: 1/ Thích Ca Mâu Ni Phật; 2/ Chư Phật; 3/ Chư Bồ Tát; 4/ Thế gian và Thế giới; và 5/ Sự thờ phụng và cách bài trí các tượng ở chùa. Nhiều điển tích trong sách này đã được Nguyễn Trọng Thuật tra cứu giúp.
Phật Giáo Thuở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay có ba chương: Chương một nói về “Phật giáo Tiểu Thặng và Phật giáo Đại Thặng”, chương hai nói về “Phật giáo ở nước Tàu” và chương ba nói về “Phật giáo ở Việt Nam”. Lại có một phần phụ lục dịch “Trì Danh Diệu Hạnh Luận” và “Sơn Cư Bách Vịnh”.
Phật Giáo Trong Ba Bài Diễn Thuyết in lại những bài diễn thuyết về Phật học của ông.
Theo Trần Trọng Kim, Phật giáo trước hết là một nền triết học và một nền luân lý; hình thái tôn giáo chỉ là phần thứ yếu của đạo Phật. Trung tâm của triết học Phật giáo là đạo lý duyên sinh. Và bản chất của luân lý Phật giáo là một lòng từ bi hoàn toàn bình đẳng, vô ngã, nghĩa là không có tính cách phân biệt kỳ thị. Ông viết:
“Đạo Phật trước hết chỉ là đạo triết lý và luân lý mà thôi. Cái triết lý của Phật giáo là cái triết lý cao minh, lấy nhân quả mà suy luận, tìm thấy nhân duyên của tạo hóa, phá tan cái màn mờ tối che lấp sự sáng tỏ, cắt đứt cái lưới mộng ảo nó trói buộc người ta vào sinh tử khổ não mà đem người ta vào chỗ thanh tịnh an vui”.
“Cái luân lý của Phật giáo là luân lý chân chính phổ biến khắp nhân chúng trong thiên hạ, lấy vô lượng từ bi mà yêu người thương vật, lấy lòng bác ái mà tế độ chúng sinh, không phân biệt người với ta, không có giai cấp sang hèn… Đối với thân mình thì trừ bỏ hết những điều điên đảo giả dối, gian tà bạo ngược, lúc nào cũng lấy sự chân thật nhân hậu mà đối với mình và đối với người… Nếu người đời biết theo cái luân lý ấy thì làm gì có những cuộc chiến tranh và những cảnh tàn khốc, làm cho đời người đã khổ lại khổ thêm?”[4]
Trần Trọng Kim nói rõ rằng đạo Phật không nhận có một vị Thần tự tại làm chúa tể vũ trụ và vì vậy đạo Phật không phải là một tôn giáo theo nghĩa những tôn giáo hữu thần. Tôn giáo của đạo Phật chỉ là cái truyền thống sinh hoạt theo nhận thức triết học và luân lý học do Phật khai sáng. “Cái tông giáo ấy tuy nói có nhiều Phật và nhiều Bồ Tát, song Phật và Bồ Tát chỉ là những bậc tối cao trong lý tưởng để tế độ chúng sinh mà thôi, chứ không phải là giữ quyền chủ tể. Vì vậy ai theo cái tông giáo ấy thì không có sự mê tín, cứ tự mình học tập tu luyện để hiểu rõ căn nguyên của vạn tượng trong thế gian và trông thấy rõ chân lý.”[5]
Ông thường kêu gọi Phật tử xa lìa mê tín và học lấy thái độ tự do tư tưởng trong đạo Phật. Kết luận buổi giảng tại chùa Quán Sứ ngày 11.1.1936, ông lên tiếng:
“Ai đem sự mê tín mà theo đạo Phật là người làm điều trái hẳn với đạo Phật… Chúng tôi mong rằng ai đã tin theo đạo Phật là người có cái tâm rất sáng suốt, có cái tự do về đường tư tưởng và có cái sức tự cường tự lập mà xử kỷ tiếp vật. Nếu người mình mà hiểu được như thế và làm được như thế, thì sự tín ngưỡng đạo Phật… rất có lợi cho sự tiến hóa của nhân quần xã hội về đường đạo lý và đường tri thức.”[6]
Trần Trọng Kim thấy cần phải phục hưng thiền học thì Phật giáo ở Việt Nam mới có thể hưng thịnh được. Tịnh Độ tông, nếu không đi đôi với thiền thì theo ông không đủ sức làm cho tinh thần Việt Nam cường kiện. Ông viết: “Phải biết rằng nếu những người xuất gia chỉ tu Tịnh mà không tu Thiền thì Phật giáo ở nước ta càng ngày càng thấp kém thêm, khó lòng mà hưng thịnh lên được. Đó là cái yếu điểm trong sự chấn hưng Phật giáo ngày nay, ta rất nên chú ý ở chỗ ấy thì cơ hồ mới có thể thành công được”[7].
Có thể nói Trần Trọng Kim là người phát ngôn chính của phong trào chấn hưng Phật học ở Bắc Kỳ vậy. Trần Trọng Kim đã đóng góp không những về phần nghiên cứu và phổ biến Phật học mà còn về phần tổ chức của hội Bắc Kỳ Phật giáo nữa. Ông luôn luôn có mặt trong những buổi họp của ban Quản Trị, góp ý kiến về việc soạn thảo nội quy điều lệ của hội và về việc tổ chức huấn luyện và chỉnh lý tăng già. Chính ông đã đề nghị trong buổi họp ngày 14.12.1934 là ban chứng minh đạo sự phải thiết lập kỷ luật tăng già cho nghiêm minh và nếu có vị tăng nào phạm giới thì sơn môn phải tuyên bố tẩn xuất, không công nhận họ là tăng sĩ nữa. Ông lại đi xa hơn và đề nghị phải can thiệp với chính quyền để những vị tăng sĩ phạm giới kia bị bắt buộc hồi tục.
Bên cạnh Trần Trọng Kim ta thấy có Bùi Kỷ. Nhà học giả này cũng đứng về phía phục hưng Phật giáo mà làm việc. Ông đã đăng nhiều thiên khảo cứu của ông trên Đuốc Tuệ. Đặc sắc nhất là bài Nghĩa chữ không trong đạo Phật. Trong bài này, ông đề cập tới nghĩa ngã không và pháp không trong đạo Phật để đi tới quan niệm giả ngã và giả pháp và cuối cùng kết luận rằng đạo lý không có mục đích cởi bỏ những mối chấp trước của con người chứ không phải là để nói rằng tất cả là không. Theo ông, chỉ khi nào phá được ngã chấp và pháp chấp mới tìm được lối thoát đích thực cho kiếp người, nếu không thì dù có hành động mấy đi nữa cũng còn là nằm trong vòng kiềm tỏa của danh lợi. Ông viết:
“Đời vốn chuộng học thuật, mà học thuật lại hóa ra diễn đàn của trò quỷ quyệt, lợi khí của mối phân tranh, có phải đó là cái lưu tệ ghê gớm của ngã chấp và pháp chấp không? Xưa nay đã có biết bao nhiêu nhà hiền triết, từng hao tổn bao nhiêu gan óc, từng phí phạm bao nhiêu mồ hôi nước mắt vì đời người mà hết lòng vun đắp, ra công dạy dỗ… song dầu giáo dục hoàn bị thế nào thì cũng chỉ là những phương pháp tạm thời, như gió chiều nào che chiều ấy, chứ vẫn chưa có cách nào giải quyết rõ ràng được những lý do của đời người mà tìm phương bổ cứu cho được lâu dài. Ai là người đã có lòng sốt sắng, con mắt cao xa, mà lại chẳng muốn lo tính cho đời? Song cứu đời ở trong ngã chấp và pháp chấp khác nào như gọi người ở trong hòm kín mà nắp hòm vẫn đóng, thì người vẫn không có lối ra. Phật tổ biết rõ bệnh căn của đời là ở hai chỗ ấy, cho nên mới đem thuyết nhị không để phá tan hai cái chấp, tức là mở nắp hòm cho người có lối thoát ra vậy”[8].
Những học giả trong ban Nghiên cứu Phật học đã làm việc với hội Bắc Kỳ Phật giáo rất bền bỉ cho tới khi tình thế bắt đầu hết ổn định. Một số cũng đã từng công bố thành quả nghiên cứu của họ, như ông Nguyễn Văn Ngọc với tập Thuyết Nghiệp Báo, do nhà in Đuốc Tuệ xuất bản sau này.
Cũng như ở Nam và ở Trung, nữ giới đã góp nhiều trong phong trào chấn hưng đạo Phật miền Bắc. Những bài diễn thuyết của các ni sư như Huệ Tâm (Hà Đông) và của các nữ cư sĩ như bà Đinh Chí Nghiêm (Ninh Bình) đã có ảnh hưởng lớn trong quần chúng. Nhu cầu mở trường Phật học cho ni giới được phản ảnh trong bài viết của ni cô Tâm Nguyệt[9].
Về phương diện xã hội, tiếng nói của giới Phật tử miền Bắc cũng rất rõ ràng. Ngoài những công tác nuôi dạy trẻ mồ côi, cứu trợ nạn nhân đói, Phật tử có thể làm được gì? Nguyễn Văn Cảnh đề nghị tất cả các vị tăng sĩ trú trì các tu viện sử dụng một hành lang ở chùa mình để làm ký nhi viện và động viên một số nữ Phật tử đến tình nguyện dạy dỗ, chăm sóc và chữa bệnh đau mắt cho trẻ em. Những đứa bé nào suốt ngày đã la cà nơi xó chợ sân đình đều nên đem về các ký nhi viện “hành lang” ấy[10]. Thiền sư Thích Thanh Đặc nhận thấy tăng sĩ không nên sống trên sự cung dưỡng của tín đồ mà phải chọn một “sinh nghiệp của xã hội” để tự nuôi sống mình và hành đạo[11]. Những nghề tăng sĩ có thể làm, theo ông, là dạy học, làm thuốc, làm nhà in, nhà xuất bản, nhà dệt, nhà khâu, in kinh, cắt chữ, v.v… Thiền sư Thanh Đặc có thể nói là vị tăng sĩ đầu tiên xướng xuất kế hoạch kinh tế tự lực cho tăng sĩ bằng những sinh nghiệp mới[12]. Lời kêu gọi của Thanh Đặc bắt đầu từ năm 1950 mới thực sự có ảnh hưởng.
Về phương diện thiếu nhi, hội Bắc Kỳ Phật giáo đã tổ chức nhiều ban Đồng Ấu, thể thức cũng giống như các ban Đồng Ấu ở Trung Kỳ. Nhiều tỉnh hội đã thành lập ban Đồng Ấu và nghi thức lễ Phật của các em đã được sáng tác toàn bằng Việt ngữ. Cư sĩ Công Chân là người có công nhất trong sự dạy dỗ và huấn luyện tuổi trẻ. Các ban Đồng Niên và Đồng Nữ ở các chi hội Khoái Châu và Hải Phòng là những ban hoạt động nhất.
Đuốc Tuệ đình bản vào năm 1945. Số chót là số 257 – 258, ra ngày 15.8.1945. Điều đáng ghi nhớ là từ số trước, danh xưng Bắc Kỳ Phật giáo hội đã được thay thế bằng danh xưng Việt Nam Phật giáo hội.
Từ năm 1934 đến 1945, hội Bắc Kỳ Phật giáo đã lập được nhiều thành tích. Sự có mặt đông đảo của giới trí thức đã tạo nhiều sinh sắc cho hội. Lúc ban đầu, sự cộng tác của các sơn môn hãy còn lỏng lẻo vì có một ít điểm dị đồng giữa các tổ đình và ông hội trưởng Nguyễn Năng Quốc, nhưng sau đó thì hai bên lại bắt đầu cộng tác chặt chẽ. Các vị tăng sĩ hữu tâm và hữu học của các tổ đình đã không ngần ngại tham dự vào việc hội. Các thiền sư Tâm Băng, Tâm Lĩnh, Tâm Bác, Thọ Cầu, Tâm Bảo, Thanh Hoán, Thanh Hậu, Tâm Tấn, Trí Hải, Tố Liên, Tuệ Chiếu, v.v… đều là những người đã hoạt động đắc lực cho Phật sự ở trung ương cũng như ở các chi hội.